Dự Thảo Luật Đất Đai 2023 Word

Dự Thảo Luật Đất Đai 2023 Word

Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) hướng tới hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp theo hướng mở rộng đối tượng, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp, quy định để người sử dụng đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích sản xuất cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo quy hoạch.

Sử dụng nhiều diện tích đất, nhiều nhà ở, đầu cơ đất sẽ phải nộp thuế cao hơn

Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) hướng tới hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính về đất đai bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư; có cơ chế điều tiết hợp lý, hiệu quả nguồn thu từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất giữa Trung ương và địa phương; điều tiết chênh lệch địa tô, bảo đảm công khai, minh bạch.

Quy định mức thuế cao hơn đối với người sử dụng nhiều diện tích đất, nhiều nhà ở, đầu cơ đất, chậm sử dụng đất, bỏ đất hoang. Thể chế chính sách ưu đãi thông qua việc miễn, giàm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phù hợp với lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư và các đối tượng chính sách.

Góp ý dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)

Trang Thông tin điện tử Sở Tư pháp Bình Định https://stp.binhdinh.gov.vn/assets/images/logo.png

Theo đề nghị của Sở Tài nguyên và Môi trường tại Văn bản số 192/STNMT-CCQLĐĐ ngày 31/01/2023 về việc thực hiện Kế hoạch triển khai lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) trên địa bàn tỉnh Bình Định; vừa qua, Sở Tư pháp đã tổ chức họp góp ý đối với dự thảo Luật nói trên. Thành phần tham dự cuộc họp bao gồm: Lãnh đạo Sở Tư pháp; Trưởng, Phó các phòng thuộc Sở; Phòng Văn bản quy phạm pháp luật và Quản lý xử lý vi phạm hành chính.

%PDF-1.4 %âãÏÓ 1 0 obj << /Type /Page /MediaBox [ 0 0 595.32 842.04 ] /Resources << /Font << /F1 2 0 R /F2 3 0 R /F3 4 0 R /F4 5 0 R /F5 6 0 R /F6 7 0 R /F10 8 0 R /F7 9 0 R /F8 10 0 R >> >> /Contents 11 0 R /Annots [ 12 0 R ] /Group << /Type /Group /S /Transparency /CS /DeviceRGB >> /Tabs /S /StructParents 62 /Parent 13 0 R /Rotate 360 >> endobj 2 0 obj << /Type /Font /Subtype /TrueType /Name /F1 /BaseFont /Times#20New#20Roman /Encoding /WinAnsiEncoding /FontDescriptor 14 0 R /FirstChar 32 /LastChar 253 /Widths 15 0 R >> endobj 14 0 obj << /Type /FontDescriptor /FontName /Times#20New#20Roman /Flags 32 /ItalicAngle 0 /Ascent 891 /Descent -216 /CapHeight 693 /AvgWidth 401 /MaxWidth 2614 /FontWeight 400 /XHeight 250 /Leading 42 /StemV 40 /FontBBox [ -568 -216 2046 693 ] >> endobj 15 0 obj [ 250 0 408 500 0 833 778 180 333 333 0 564 250 333 250 278 500 500 500 500 500 500 500 500 500 500 278 278 564 564 564 444 921 722 667 667 722 611 556 722 722 333 389 722 611 889 722 722 556 722 667 556 611 722 722 944 722 722 611 333 0 333 0 500 0 444 500 444 500 444 333 500 500 278 278 500 278 778 500 500 500 500 333 389 278 500 500 722 500 500 444 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 400 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 722 722 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 333 0 0 0 0 0 722 0 0 0 0 0 0 0 0 722 0 0 444 444 444 444 0 0 0 444 444 444 444 0 278 278 0 0 0 0 500 500 500 500 0 0 0 500 500 0 0 500 ] endobj 3 0 obj << /Type /Font /Subtype /Type0 /BaseFont /Times#20New#20Roman,Bold /Encoding /Identity-H /DescendantFonts 16 0 R /ToUnicode 17 0 R >> endobj 16 0 obj [ 18 0 R ] endobj 18 0 obj << /BaseFont /Times#20New#20Roman,Bold /Subtype /CIDFontType2 /Type /Font /CIDToGIDMap /Identity /DW 1000 /CIDSystemInfo 19 0 R /FontDescriptor 20 0 R /W 21 0 R >> endobj 19 0 obj << /Ordering (Identity) /Registry (Adobe) /Supplement 0 >> endobj 20 0 obj << /Type /FontDescriptor /FontName /Times#20New#20Roman,Bold /Flags 32 /ItalicAngle 0 /Ascent 891 /Descent -216 /CapHeight 677 /AvgWidth 427 /MaxWidth 2558 /FontWeight 700 /XHeight 250 /Leading 42 /StemV 42 /FontBBox [ -558 -216 2000 677 ] /FontFile2 22 0 R >> endobj 22 0 obj << /Filter /FlateDecode /Length 102034 /Length1 387040 >> stream xœì�`\U™Çÿó~ÏÜy¿_™I&™<›ô‘†´M“¦„¶”B¶ˆ’R åÑZ± «èªhW×Ç®ot]D1]è.®Š‚Oð‰‚ˆ ëEDf¿sÎ�¹“4$™�ì$áüNÏw¿{ïyÝÉô»÷|sιЈ’0âí›vžtâMw?ú6˜îÜdßuâ¦áÍywK†—|0œ¸ã”�gÿùm=0ì @÷èȉ;Ol8ÿ‰Ó`:ñ,àÕ‡¶ìܵù`ñ3L_¹›JMmÛµsÄ÷ \lj|W�²³³;våÕ‡ }„Î�îÚ¶ëªð럦ò?@û«ÏØtòî�7ògÜ xßµïàÞÃ�ØÌ;¡Ï=B üÖ¾Ë/Ë\öó¿~úÁQÀÚvÞáó®ùÐúæc€yÃù{/=Œ lTÞ[©<åü‹¯8獵2—C¿…öo}ìÀ¹�¼öÆ'oôCwû öï=÷�‰ ½€Ž×€ø�¡[hŸ®ù/;Ò|ŽãAjï`ãg.ÚÉ¡§â³0´ cö‹_¶oïO¶|j-ÆË(ùî=r8þŽÀk(ÿS”?spÿe{ ×™öÒçñ8»ÞC{îú®kÁÐJéW

Phiên họp thứ 29 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ảnh: Quốc hội.

Cụ thể, 22 nội dung nổi bật đã hoàn thiện, chỉnh lý theo Thông báo kết luận 3123/TB-TTKQH và Thông báo 3298/TB-VPQH gồm:

1. Về nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp (Khoản 7 Điều 45)

Chính phủ thống nhất với phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính phủ kèm theo Công văn 718/UBTVQH15-KT ngày 26/12/2023, theo đó cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhận chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa (trừ trường hợp tặng cho cho người thuộc hàng thừa kế) quá hạn mức giao đất thì phải thành lập tổ chức kinh tế và có phương án sử dụng đất trồng lúa và được Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt,

2. Về nguyên tắc, tiêu chí phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất trong nội dung quy hoạch sử dụng đất cấp huyện (điểm c Khoản 2 Điều 66)

Chính phủ thống nhất với phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính phủ kèm theo Công văn 718/UBTVQH15- KT ngày 26/12/2023, theo đó không quy định tại dự thảo Luật cụ thể các loại chỉ tiêu sử dụng đất trong nội dung quy hoạch sử dụng đất cấp huyện mà giao Chính phủ quy định trong văn bản hướng dẫn thi hành Luật.

3. Về cấp Giấy chứng nhận cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất mà không vi phạm pháp luật về đất đai, không thuộc trường hợp giao đất trái thẩm quyền (Điều 138)

Chính phủ thống nhất với phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính phủ kèm theo Công văn 718/UBTVQH15- KT ngày 26/12/2023, theo đó quy định thời điểm công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất, không có giấy tờ về quyền sử dụng đất, không vi phạm pháp luật về đất đai, không thuộc trường hợp giao đất trái thẩm quyền đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2014.

4. Về việc ổn định tiền thuê đất hàng năm (Khoản 2 Điều 153)

Chính phủ thống nhất với phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính phủ kèm theo Công văn 718/UBTVQH15- KT ngày 26/12/2023, theo đó tiền thuê đất hằng năm được áp dụng ổn định cho chu kỳ 05 năm, trường hợp tiền thuê đất chu kỳ sau tăng so với chu kỳ trước thì tiền thuê đất phải nộp được điều chỉnh nhưng không quá tổng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của giai đoạn 05 năm trước đó và tỷ lệ cụ thể do Chính phủ quy định.

5. Về hoạt động lấn biển (Điều 190)

Chính phủ thống nhất với phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính phủ kèm theo Công văn 718/UBTVQH15-KT ngày 26/12/2023, theo đó quy định tại dự thảo Luật nguyên tắc nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có hoạt động lấn biển đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư thì được giao khu vực biển để thực hiện hoạt động lấn biển cùng với giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư và giao Chính phủ quy định chi tiết.

6. Về giải quyết việc chưa thống nhất về địa giới đơn vị hành chính (Điều 49)

Chính phủ về cơ bản thống nhất với dự thảo quy định tại Điều 49 đã hoàn thiện, chỉnh lý theo Thông báo kết luận 3132/TB-TTKQH ngày 21/11/2023 của Tổng Thư ký Quốc hội và Thông báo 3298/TB-VPQH ngày 22/12/2023 của Văn phòng Quốc hội. Đồng thời đề nghị chỉnh lý khoản 4 và khoản 5 Điều 49 như sau:

“4. Trường hợp phạm vi quản lý đất đai cấp tỉnh chưa xác định được do chưa xác định được địa giới đơn vị hành chính thì Bộ Nội vụ chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường và các địa phương có liên quan lập hồ sơ báo cáo Chính phủ.

5. Trường hợp phạm vi quản lý đất đai cấp huyện, cấp xã chưa xác định được do chưa xác định được địa giới đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thì Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp dưới có liên quan phối hợp giải quyết; trong thời gian chưa có quyết định về xác định địa giới đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thì Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về đất đai đối với khu vực chưa thống nhất. Trường hợp không thống nhất được phương án giải quyết thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập hồ sơ báo cáo Chính phủ”.

7. Về quyền và nghĩa vụ về sử dụng đất của người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 4, điểm g khoản 1 Điều 28)

Chính phủ thống nhất quy định theo hướng người Việt Nam định cư ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam thì được có đầy đủ các quyền liên quan đến đất đai như công dân Việt Nam ở trong nước (cá nhân trong nước); đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài không có quốc tịch Việt Nam có các quyền và nghĩa vụ như quy định tại Luật Đất đai 2013. Đối với việc sử dụng thuật ngữ “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà không phải là công dân Việt Nam theo quy định của pháp luật về quốc tịch”, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị thống nhất sử dụng thuật ngữ “người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài” đã được quy định trong Luật Quốc tịch Việt Nam như Chính phủ đã đề xuất tại Báo cáo 598/BC-CP ngày 23/10/2023.

Bên cạnh đó, để kế thừa quy định tại Luật Đất đai 2013 đảm bảo tính ổn định của hệ thống pháp luật, Chính phủ đề nghị chỉnh lý điểm g khoản 1 Điều 28 như sau:

“g) Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam được mua, thuê mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở, nhận quyền sử dụng đất ở trong dự án phát triển nhà ở; nhận thừa kế quyền sử dụng đất ở và các loại đất khác trong cùng thửa đất có nhà ở theo quy định của pháp luật về dân sự; nhận tặng cho nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở từ những người thuộc hàng thừa kế theo quy định của pháp luật về dân sự”

8. Về phạm vi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (điểm c khoản 1 Điều 28)

Chính phủ thống nhất với phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính phủ kèm theo Công văn 718/UBTVQH15- KT ngày 26/12/2023, theo đó giữ nguyên phạm vi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài như quy định tại dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5, đối với các dự án của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tính chất quan trọng, trọng điểm, động lực trong việc thu hút đầu tư nước ngoài thuộc thẩm quyền quyết định, chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ thì thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại khoản 31 Điều 79.

9. Về quyền và nghĩa vụ của đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm (Điều 34)

Chính phủ thống nhất với phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính phủ kèm theo Công văn 718/UBTVQH15- KT ngày 26/12/2023, theo đó đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm không được quyền bán, quyền thế chấp tài sản gắn liền với đất thuê và quyền thuê trong hợp đồng thuê và quyền góp vốn bằng tài sản gắn liền với đất thuê.

10. Về nguyên tắc lập và phê duyệt quy hoạch sử dụng đai các cấp (Khoản 9 Điều 60, khoản 2 Điều 262)

Chính phủ thống nhất với phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính phủ kèm theo Công văn 718/UBTVQH15- KT ngày 26/12/2023, theo đó quy định nguyên tắc lập và phê duyệt quy hoạch theo Luật Quy hoạch, đồng thời bổ sung quy định chuyển tiếp cho phép áp dụng Nghị quyết 61/2022/QH15.

11. Về quy định nguyên tắc tiêu chí phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất cấp tỉnh, chỉ tiêu sử dụng đất cấp huyện (Khoản 9 Điều 76)

Chính phủ thống nhất với phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính phủ kèm theo Công văn 718/UBTVQH15 KT ngày 26/12/2023, theo đó giao Chính phủ ban hành nguyên tắc, tiêu chí phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất cấp tỉnh, chỉ tiêu sử dụng đất cấp huyện.

12. Về thu hồi đất để thực hiện dự án nhà ở thương mại, dự án hỗn hợp nhà ở và kinh doanh thương mại dịch vụ (khoản 27 Điều 79)

Tại Nghị quyết 18-NQ/TW năm 2022 đã chủ trương "Thực hiện việc giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất”. Việc đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư là công cụ để Nhà nước quản lý đất đai theo hướng công khai, minh bạch, đem lợi ích tốt nhất cho xã hội trong đó có việc tăng thu ngân sách và lựa chọn nhà đầu tư tốt nhất để thực hiện dự án.

Trên cơ sở kế thừa Luật Đất đai 2013, thể chế hóa Nghị quyết 18-NQ/TW, ý kiến của Chủ tịch Quốc hội, Chính phủ đề nghị chỉnh lý, hoàn thiện khoản 27 Điều 79 như sau:

“27. Thực hiện các dự án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận phủ họp với quy hoạch nhằm tạo quỹ đất do Nhà nước đầu tư để đấu giá quyền sử dụng đất hoặc để giao cho nhà đầu tư trúng thầu dự án sử dụng đất, bao gồm: dự án đầu tư xây dựng khu đô thị; dự án chỉnh trang đô thị, khu dân cư nông thôn”.

13. Về tổ chức phát triển quỹ đất (Điều 115)

Chính phủ thống nhất với phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính phủ kèm theo Công văn 718/UBTVQH15-KT ngày 26/12/2023, đồng thời chỉnh lý kỹ thuật nội dung khoản 1 Điều 115 như sau:

“2. Tổ chức phát triển quỹ đất có chức năng:

a) Thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, xây dựng hạ tầng kỹ thuật để tạo lập, quản lý, khai thác quỹ đất theo dự án do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao;

b) Thực hiện bồi thường, hỗ trợ; tái định cư đối với các dự án được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền giao nhiệm vụ;

c) Tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất;

d) Cho các Tổ chức, cá nhân thuê ngắn hạn đối với đất thuộc quỹ đất chưa giao, cho thuê để thực hiện các dự án đầu tư để khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả theo quy định của Chính phủ;

đ) Tạo lập quỹ đất nông nghiệp thông qua việc thuê, nhận ký gửi quyền sử dụng đất nông nghiệp để cho thuê, cho thuê lại để sản xuất nông nghiệp;

e) Cung cấp các dịch vụ công về đất đai;

g) Thực hiện các nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định”.

14. Về mối quan hệ giữa các trường hợp thu hồi đất và thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất thực hiện dự án phát triển kinh tế-xã hội không sử dụng vốn ngân sách nhà nước (Khoản 6 Điều 127)

Chính phủ thống nhất với phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính phủ kèm theo Công văn 718/UBTVQH15-KT ngày 26/12/2023, theo đó ưu tiên người đang có quyền sử dụng đất có đề xuất dự án đầu tư phù hợp với quy hoạch sử dụng đất có đề nghị chuyển mục đích sử dụng đất mà được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư thì được sử dụng đất để thực hiện dự án mà Nhà nước không thực hiện thu hồi đất theo quy định tại Điều 79.

15. Về nội dung, phương pháp định giá đất và điều kiện áp dụng của từng phương pháp (Điều 158)

Chính phủ thống nhất bổ sung các nội dung cơ bản của các phương pháp định giá đất: so sánh, thặng dư, thu nhập, hệ số điều chỉnh giá đất tại khoản 5 Điều 158; quy định cụ thể điều kiện áp dụng của các phương pháp định giá đất tại khoản 6 Điều 158.

16. Về đối tượng được sử dụng đất quốc phòng, an ninh, kết hợp với hoạt động tao động sản xuất, xây dựng kinh tế (khoản 1 Điều 201)

Chính phủ đề nghị sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 201 như sau:

“b) Doanh nghiệp do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an được giao quản lý (trong Điều này gọi là doanh nghiệp quân đội, công an)”

17.  Về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp quân đội, công an khi sử dụng đất quốc phòng an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế (khoản 3 Điều 201)

Chính phủ đề nghị sửa đổi, bổ sung điểm h khoản 3 Điều 201 như sau:

“h) Doanh nghiệp quân đội, công an được cho thuê, thế chấp, góp vốn bằng tài sản gắn liền với đất theo phương án được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an phê duyệt; trường hợp chuyển những tài sản gắn liền với đất, xử lý tài sản thế chấp, tài sản góp vốn thì chỉ được thực hiện trong nội bộ giữa các doanh nghiệp, đơn vị quân đội, công an theo phương án được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an phê duyệt”.

18. Về trường hợp tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhận chuyển nhượng dự án bất động sản (Điều 117, 119, 124)

Chính phủ thống nhất với phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính phủ kèm theo Công văn 718/UBTVQH15- KT ngày 26/12/2023, theo đó đối với trường hợp chuyển nhượng dự án bất động sản khi nhà đầu tư chưa được cấp Giấy chứng nhận thì không tiến hành thu hồi đất mà Nhà nước giao đất cho bên nhận chuyển nhượng dự án bất động sản trên cơ sở quyết định cho phép chuyển nhượng dự án bất động sản và hợp đồng chuyển nhượng theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản.

19. Về dự án tạo quỹ đất do Nhà nước đầu tư

Chính phủ thống nhất với phương án 2 đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính phủ kèm theo Công văn 718/UBTVQH15- KT ngày 26/12/2023, theo đó bỏ Điều 113 quy định về dự án tạo quỹ đất do Nhà nước đầu tư.

20. Về các loại đất thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất (Điều 122,127)

Chính phủ thống nhất với phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính phủ kèm theo Công văn 718/UBTVQH15-KT ngày 26/12/2023, theo đó hạn chế loại đất được thực hiện dự án nhà ở thương mại dịch vụ thông qua thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất đối với đất ở hoặc đất ở và đất khác và đề nghị chỉnh lý điểm b khoản 1 Điều 127 như sau: “b) Đối với trường hợp sử dụng đất để thực hiện dự án nhà ở thương mại thì được thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất ở hoặc đất ở và đất khác”.

21. Về sửa đổi Luật Đầu tư công liên quan đến quy định tách nội dung bồi thường giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư thành dự án độc lập

Chính phủ thống nhất không sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư công trong dự thảo Luật này, mà thực hiện cơ chế thí điểm như chủ trương tại Nghị quyết 18-NQ/TW “Tiếp tục thực hiện thí điểm và sớm tổng kết chủ trương tách dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ra khỏi dự án đầu tư để thực hiện trước”, Theo đó, đề xuất trong Nghị quyết về thi hành Luật Đất đai (sửa đổi) sẽ giao Chính phủ quy định việc thí điểm tách dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thành dự án độc lập để tổ chức thực hiện và sau khi có đánh giá, tổng kết thì sửa đổi Luật Đầu tư công.

22. Quỹ phát triển đất (Điều 114)

Chính phủ đề nghị giữ nguyên các quy định về Quỹ phát triển đất, giữ lại điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân sách nhà nước tại dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã được Chính phủ trình tại Báo cáo 598/BC-CP gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Đề xuất mới về đào tạo, cấp chứng chỉ nghiệp vụ chuyên môn về đấu thầu

Kế hoạch lấy ý kiến dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)

(Xây dựng) - Sau hơn 9 năm tổ chức thi hành Luật Đất đai năm 2013, công tác quản lý đất đai đã đạt được những kết quả quan trọng, tạo ra hành lang pháp lý đồng bộ, chặt chẽ và khả thi cho việc khai thác và sử dụng đất đai hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả, khai thác nguồn lực đất đai cho việc phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là việc phát triển các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, nhà ở đô thị; tạo điều kiện cho đất đai tham gia vào thị trường bất động sản; tạo ra những động lực mạnh mẽ cho phát triển đô thị, tăng đáng kể nguồn thu cho ngân sách, đóng góp tích cực cho việc phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng nhưng đến nay đất nước đã có rất nhiều sự thay đổi, mặt khác Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật mới liên quan đến quản lý, sử dụng đất đai, Luật Đất đai 2013 cũng đã bộc lộ quá nhiều tồn tại, hạn chế, bất cập vì vậy việc phải sửa đổi ban hành mới là rất cần thiết và cấp bách.

Sau khi nghiên cứu dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), PGS.TS Nguyễn Hồng Tiến - Nguyên Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng có một số ý kiến theo góc độ chuyên môn như sau.

Dự thảo Luật lần này khá toàn diện nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội, bước đầu đã được nghiên cứu bổ sung mặc dù còn cần tiếp tục hoàn thiện vì hầu hết các vấn đề đều là hệ trọng liên quan trực tiếp đến lợi ích của người dân, doanh nghiệp và Nhà nước. Tuy nhiên nhiều điều/ khoản cần được quy định ngay tại Luật (đặc biệt những quy định có liên quan đến thủ tục hành chính) không nên chờ các văn bản quy định hoặc hướng dẫn của Chính phủ hay Bộ ngành… trong số 237 điều của dự thảo thì có khoảng 55 điều khoản giao cho Chính phủ quy định và chưa kể đến nhiều điều/khoản giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường hay các Bộ ngành khác hướng dẫn, vì vậy cần có sự rà soát lại và quy định cụ thể hơn.

Nhóm ý kiến về Giải thích thuật ngữ

(14) Đất để xây dựng công trình ngầm là phần đất để xây dựng công trình trong lòng đất mà công trình này không phải là phần ngầm của công trình xây dựng trên mặt đất.

Khái niệm này chưa đầy đủ mà phải là “Đất để xây dựng công trình ngầm là phần đất để xây dựng các công trình trong lòng đất” không nên phân biệt công trình là phần ngầm của công trình xây dựng trên mặt đất và công trình ngầm được xây dựng riêng biệt bởi vì trong thực tế thường có sự kết hợp, liên kết, giao thoa hoặc kết nối đặc biệt các công trình xây dựng dưới lòng đất tại các khu vực đô thị – việc tồn tại công trình ngầm được xây dựng riêng biệt/độc lập là rất hiếm.

(45) Thửa đất là phần diện tích đất được giới hạn bởi ranh giới xác định trên thực địa hoặc được mô tả trên hồ sơ.

Việc xác định trên thực địa (mặt đất) theo không gian 2 chiều là thuận lợi và khả thi nhưng liên quan đến chiều sâu của thửa đất để cho phép xây dựng công trình ngầm thì khái niệm này cần được nghiên cứu bổ sung theo hướng không gian 3 chiều.

Nhóm ý kiến về Phân loại đất (Điều 10)

e) Đất sử dụng vào mục đích công cộng gồm đất công trình giao thông (gồm cảng hàng không, sân bay, cảng đường thủy nội địa, cảng hàng hải, đường sắt, đường bộ và công trình giao thông khác); công trình thủy lợi; đất công trình phòng, chống thiên tai; đất có di tích lịch sử - văn hóa, di sản thiên nhiên, danh lam thắng cảnh; đất sinh hoạt cộng đồng, khu vui chơi, giải trí công cộng; đất công trình năng lượng; đất công trình bưu chính, viễn thông; đất chợ; đất cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá, đất bãi thải, xử lý chất thải và đất công trình công cộng khác.

Như vậy đã có khá đầy đủ các loại đất, tuy nhiên lại thiếu đất công trình cấp nước sạch, thoát nước mưa và nước thải (gồm công trình đầu mối, công trình phụ trợ và mạng lưới) đề nghị bổ sung đồng thời rà soát bổ sung trong nội dung của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các loại đất của các công trình này (trong dự thảo không có).

Nhóm ý kiến về Nghĩa vụ chung của người sử dụng đất (Điều 31)

Tại khoản 1: “Sử dụng đất đúng mục đích, đúng ranh giới thửa đất, đúng quy định về sử dụng độ sâu trong lòng đất và chiều cao trên không…”, đề nghị phải làm rõ sử dụng độ sâu trong lòng đất được quy định ở văn bản nào, hiện nay trong Luật này không có và nhiều văn bản pháp luật khác không có. Cần thiết nên đưa cụ thể vào văn bản Luật này mới hợp lý vì liên quan đến các quyền về sử dụng đất để xây dựng công trình ngầm.

Nhóm ý kiến về Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (chương V)

Kết cấu: Trong các điều dự thảo đang trình bày Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đan xen với nhau. Tuy nhiên cách trình bày như vậy gây khó theo dõi, trùng lặp và đôi khi lại bị lặp đi lặp lại về nội dung. Từ nguyên tắc lập, căn cứ lập, thời kỳ lập, nội dung lập, trách nhiệm lập, thẩm định, thẩm quyền phê duyệt của Quy hoạch sử dụng đất và Kế hoạch sử dụng đất đều khác nhau, vì vậy cần trình bày lại theo hướng tách thành 2 phần riêng biệt (Quy hoạch sử dụng đất và Kế hoạch sử dụng đất).

Nguyên tắc lập Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất (Đ60): Đối với Quy hoạch sử dụng đất đã quy định khá rõ về nguyên tắc khi lập nhưng hầu như rất ít nguyên tắc có liên quan khi lập kế hoạch sử dụng đất vì vậy cần bổ sung cụ thể hơn.

Mặt khác trong một số lần báo cáo về dự thảo Luật Đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ ra 2 quy hoạch quan trọng có liên quan đến nội dung của Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đó là:

Quy hoạch về giao thông, vận tải với 5 quy hoạch ngành Giao thông – Bộ Tài nguyên và Môi trường xem đây là xương sống và từ quy hoạch này mở ra vấn đề giá trị đất đai tăng lên và phát triển kinh tế - xã hội sẽ mở theo. Do đó, quy hoạch đất đai chắc chắn phải dựa vào và gắn kết chặt chẽ với quy hoạch giao thông.

Quy hoạch mang tính không gian như quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị và quy hoạch nông thôn. Bộ Tài nguyên và Môi trường xác định, ở nơi nào đã có quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn đã được phê duyệt thì không cần làm cụ thể quy hoạch đất đai mà quy hoạch đất đai chỉ sử dụng các tiêu chí về phân bổ, sử dụng đất hợp lý thông qua kế hoạch sử dụng đất, tức là thông qua việc huy động nguồn lực, việc chuyển đổi lực lượng sản xuất cho phù hợp...

Việc tiếp cận theo hướng trên là khá chính xác và hợp lý vì Luật Đất đai phải đảm bảo thống nhất, đồng bộ với các Luật khác và không mâu thuẫn. Tuy nhiên rất tiếc trong các nội dung có liên quan đến Quy hoạch, kế hoạch lại thể hiện rất ít các quan điểm trên, có thể ví dụ:

Nguyên tắc lập (Đ60) hầu như không làm rõ tuân thủ quy định nào có liên quan đến quy hoạch về giao thông hay quy hoạch mang tính không gian?

Liên quan đến quy hoạch đô thị chỉ thể hiện tại Khoản 3 Điều 65 Quy hoạch sử dụng đất và kế hoạch sử dụng đất ở cấp huyện (Khoản 3 Điều 65) là chưa đầy đủ, vì vậy có thể bổ sung đối với các thành phố trực thuộc Trung ương có Quy hoạch chung được lập và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì không nhất thiết phải lập quy hoạch sử dụng đất (bổ sung vào Điều 64).

Đề nghị bổ sung đất công trình cấp nước sạch, công trình thoát nước mưa, nước thải vào điểm b khoản 2 Điều 64.

Nhóm ý kiến liên quan đến việc thu hồi đất

Những nội dung về thu hồi đất trong dự thảo lần này đã được chi tiết cho các đối tượng cũng như có các quy định giải quyết cụ thể, tuy nhiên trong thực tế cũng còn có những bất cập liên quan đến đất đai cũng cần được nghiên cứu và bổ sung trong dự thảo Luật Đất đai lần này như sau:

Theo Luật Giao thông đường bộ (2008) và dự thảo Luật Đường bộ mới đây quy định: Trong phạm vi bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ được xây dựng công trình hạ tầng khác không thể bố trí ngoài phạm vi bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, gồm công trình phục vụ quốc phòng, an ninh, thông tin, viễn thông, năng lượng, cấp, thoát nước, công trình thủy lợi, thủy điện, băng tải phục vụ sản xuất, công trình tuyên truyền theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước, công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị, các công trình đặc biệt khác.

Tuy nhiên khi có yêu cầu của cơ quan quản lý đường bộ có thẩm quyền trong trường hợp cần thu hồi đất để đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng, sửa chữa, bảo trì công trình đường bộ thì chủ sở hữu hoặc người quản lý sử dụng công trình hạ tầng phải hoàn trả công trình đường bộ bị ảnh hưởng, bố trí kinh phí và tổ chức di dời công trình. Đây là quy định không hợp lý và không công bằng. Vì đã cho phép xây dựng (theo Luật Giao thông đường bộ) trong phạm vi bảo vệ cũng như đã phù hợp với quy hoạch giao thông hay quy hoạch đô thị thi khi di chuyển phải được đền bù về tài sản đã xây dựng thì mới hợp lý và công bằng bảo đảm lợi ích của chủ sở hữu hoặc người quản lý sử dụng. Mặt khác, công trình theo tuyến như cấp nước, thoát nước, cấp điện, thông tin… không phải là các công trình độc lập dễ dàng di chuyển mà liên quan đến cả hệ thống/mạng lưới kết nối, liên quan đến vấn đề sản xuất, an sinh, xã hội và cuộc sống hàng ngày của người dân (có thể không thể bị gián đoạn) đồng thời cũng cần phải có thời gian hợp lý khi thông báo/di chuyển/thi công để bảo đảm tính ổn định và liên tục… Vì vậy trong Luật Đất đai tại Khoản 1 Điều 81 nên bổ sung việc thu hồi đất để đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng, sửa chữa, bảo trì công trình đường bộ…

Trong trường hợp bổ sung vào Điều 81 được chấp thuận thì việc bồi thường chi phí di chuyển khi Nhà nước thu hồi đất sẽ được áp dụng các quy định tại Điều 101.

Nhóm ý kiến về đất để xây dựng công trình ngầm/không gian ngầm

Trong dự thảo lần này nội dung có liên quan về sử dụng đất để xây dựng công trình ngầm hay quản lý không gian ngầm đã được bổ sung khá cụ thể. Tuy nhiên, do quản lý đất đai và sử dụng không gian dưới đất để xây dựng và quản lý là khá mới nên cũng còn một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và làm rõ thêm tại văn bản Luật này. Ví dụ: Quyền được sử dụng đất đến độ sâu bao nhiêu? Quyền sử dụng đất để xây dựng công trình ngầm giữa các chủ thể tham gia (ở các tầng không gian ngầm - mức độ sâu khác nhau); việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xây dựng công trình ngầm được thực hiện như thế nào? Sử dụng đất xây dựng công trình ngầm có hành lang an toàn/vùng bảo vệ (công trình theo tuyến)? Quan hệ giữa người sử dụng đất trên mặt đất và người sử dụng đất dưới mặt đất được quy định như thế nào? Thu hồi đất, bồi thường để xây dựng công trình ngầm được thực hiện như thế nào?

Nhóm ý kiến về miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất

Trong thời gian qua việc miễn giảm, giảm tiền sử dụng đất đối với các hệ thống cung cấp nước sạch cho người dân đã góp phần kêu gọi đầu tư, mở rộng phạm vi/vùng cấp nước, cải thiện điều kiện cung cấp nước, nâng cao chất lượng nước sạch đặc biệt giá nước sạch phù hợp với thu nhập của người dân, vì vậy cần giữ nguyên quy định này cùng với các công trình cấp nước để huy động các nguồn lực đầu tư vào các công trình thoát nước và xử lý nước thải giảm thiểu ô nhiễm góp phần bảo vệ môi trường thì việc miễn, giảm tiền sử dụng đất… là cần thiết. Vì vậy, nên bổ sung vào khoản 1 Điều 152: Sử dụng đất để xây dựng công trình cấp nước sạch và thoát nước, xử lý nước thải tại khu vực đô thị và nông thôn.

Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) có nhiều nội dung mới và được trình bày khá logic, nhiều bất cập cũng đã được từng bước tháo gỡ, tuy nhiên cũng còn một số điểm cần làm rõ, bổ sung để hoàn thiện.

PGS.TS Nguyễn Hồng Tiến Nguyên Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng

Tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Minh Ngân cho biết: Luật Đất đai là một đạo luật hết sức khó, phức tạp, liên quan đến rất nhiều lĩnh vực về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu… Thời gian qua, để xây dựng Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) ngoài việc thực hiện trực tiếp của cơ quan soạn thảo, hệ thống các cơ quan Nhà nước thì báo chí đã đồng hành hết sức tích cực. Một mặt báo chí cung cấp thông tin từ cơ quan soạn thảo, mặt khác nêu những quan điểm, chính kiến của các người dân, tổ chức, các nhà khoa học, nhà quản lý giúp cho cơ quan soạn thảo có thêm thông tin.

Ông Đào Trung Chính, Cục trưởng Cục Quy hoạch và Phát triển tài nguyên đất thông tin: Thực hiện Nghị quyết số 671/NQ-UBTVQH15, tại Nghị quyết số 170/NQ-CP ngày 31-12-2022, Chính phủ đã ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân được thực hiện từ ngày 3-1-2023 đến ngày 15-3-2023. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đăng tải nội dung Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và các tài liệu liên quan trên website lấy ý kiến nhân dân.

Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, đã có 12.107.457 lượt ý kiến góp ý đối với Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Các nội dung được nhân dân quan tâm góp ý tập trung vào: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư với 1.227.238 lượt ý kiến; giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất với 1.064.464 lượt ý kiến; tài chính đất đai, giá đất với 1.035.394 lượt ý kiến; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất với 1.008.494 lượt ý kiến.

Các cơ quan truyền thông, báo chí cũng đã góp phần tích cực trong việc tuyên truyền, phổ biến, lấy ý kiến nhân dân, mở nhiều chuyên mục trao đổi, thảo luận, phản ánh kịp thời ý kiến nhân dân, doanh nghiệp, các chuyên gia, nhà khoa học, cơ quan quản lý... liên quan dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Ý kiến của nhân dân được đăng tải trên báo chí và các phương tiện truyền thông là 20.537 tin, bài.

Sau khi kết thúc việc lấy ý kiến nhân dân, Chính phủ tiếp tục nhận được ý kiến góp ý của các Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, ý kiến phản biện xã hội lần 2 của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ý kiến thẩm tra của Ủy ban Kinh tế, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).

Việc tiếp thu, giải trình ý kiến của nhân dân để hoàn thiện dự án Luật được Chính phủ thực hiện ngay trong quá trình lấy ý kiến. Chính phủ đã nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu để hoàn thiện Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) trình Quốc hội.

Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đề xuất nhiều chính sách mới

Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã thể chế các định hướng trong Văn kiện Đại hội Đảng Khóa XIII, các Nghị quyết, kết luận của Đảng, của Quốc hội. Đặc biệt đã thể chế hóa 3 mục tiêu tổng quát, 6 mục tiêu cụ thể, 6 nhóm giải pháp và 8 nhóm chính sách lớn tại Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương và giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực tiễn, phù hợp với xu thế phát triển, Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) có nhiều nội dung mới.