Thị Trường Cho Thuê Tài Chính Việt Nam

Thị Trường Cho Thuê Tài Chính Việt Nam

Cho thuê tài chính là hoạt động kinh doanh của một số công ty hay ngân hàng. Những công ty hay ngân hàng này sẽ mua những tài sản có giá trị như máy bay, móc móc, nhà xưởng, thiết kế sản xuất kinh doanh…và giữ quyền sở hữu của những tài sản đó. Sau đó sẽ sử dụng những tài sản mua được đó cho những khách hàng có nhu cầu thuê lại để kinh doanh. Mức giá cho thuê và một số điều kiện sẽ được hợp đồng cho hai bên ký. Hoạt động này được gọi là cho thuê tài chính.

Các hình thức cho thuê tài chính thường dùng tại Việt Nam:

Thứ nhất, hình thức cho thuê tài chính trong nước

Cho thuê tài chính trong nước là việc bên cho thuê tài chính mua lại tài sản từ một nhà cung cấp trong nước và cho thuê lại tài sản theo tiến độ thanh toán trong hợp đồng nhờ thu và được coi là một phương thức cấp tín dụng trung bình. và kinh doanh lâu dài.

Bên thuê sẽ lựa chọn thiết bị, nhà cung cấp và nhà sản xuất đồng thời có thể thỏa thuận giá mua, chế độ bảo hành với nhà cung cấp. Trong thời gian thuê tài chính, quyền sở hữu sẽ thuộc về bên cho thuê và bên thuê sẽ có quyền sử dụng tài sản thuê.

Thứ hai, hình thức cho thuê tài chính nhập khẩu

Cho thuê tài chính nhập khẩu là việc công ty cho thuê tài chính sẽ thay mặt bên thuê đi mua tài sản từ các nước khác và cho bên thuê thuê lại với mức giá khác theo sự thỏa thỏa của các bên và được ký kết trong hợp đồng.

Một số công ty cho thuê tài chính có cả hình thức mở tín dụng thư để nhập khẩu tài sản thuê cho khách hàng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể thực hiện nghiệp vụ này.

Thứ ba, hình thức cho thuê tài chính mua và cho thuê lại

Đây là hình thức được khá nhiều doanh nghiệp sử dụng, là công ty cho thuê tài chính mua lại tài sản của bên thuê và cho bên thuê lại tài sản với giá theo bên cho thuê. Đây được xem là cách tài trợ vốn để cơ cấu nguồn vốn lại cho doanh nghiệp trung và dài hạn. Bên cạnh đó doanh nghiệp có thể được tài trở đến 90% giá trị còn lại của thiết bị nếu thỏa thuận được bên cho thuê. Với hình thức cho thuê tài chính này sẽ giúp cho doanh nghiệp được linh hoạt trong công tác kinh doanh, cân bằng lại nguồn vốn hoặc tích trữ vốn cho những dự án tiếp theo.

Thứ tư, hình thức cho thuê tài chính cho thuê vận hành

Hình thức cho thuê tài chính cho thuê vận hành là hình thức cho thuê tài sản mà khách hàng có thể thuê để sử dụng tài sản trong một thời gian nhất định và sẽ hoàn trả lại tài sản cho bên cho thuê. Tuy nhiên, chi phí thuê tài sản này sẽ do các bên tự thỏa thuận với nhau mức giá và thời gian cho thuê để đảm bảo quyền lợi của khách hàng.

Hiện nay với nền kinh tế ngày càng cao đã kéo theo doanh nghiệp phải linh động trong hoạt động kinh doanh để phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Chính vì vậy mà doanh nghiệp không nhất thiết phải mua tài sản, máy móc, thiết bị để phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Vì có những công việc sẽ thực hiện trong một thời gian ngắn chính vì vậy việc mua máy móc, thiết bị sẽ gây tốn chi phí của doanh nghiệp. Thay vào đó doanh nghiệp có thể thuê trang thiết bị, máy móc của những công ty cho thuê tài chính.  Từ đó giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí.

Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa Bên cho thuê là các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và Bên thuê là khách hàng.

Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của Bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với các tài sản thuê trong suốt quá trình thuê.

Bên thuê được sử dụng tài sản thuê, thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được hủy bỏ hợp đồng thuê trước thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, Bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê lại tài sản đó theo các điều kiện đã được hai bên thoả thuận.

(Chinhphu.vn) Tháng 7 trở nên sôi động với ngành logistics Việt Nam khi chứng kiến các thương vụ giữa doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác Nhật Bản và Hàn Quốc.

Đáng chú ý là ký kết giữa Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (VIMC) và Suzue, hay Sumitomo thông qua công ty con cùng các đối tác Nhật đầu tư vào Gemadept.

Thực tế, vốn Nhật đổ vào lĩnh vực logistics Việt Nam từ khá sớm, đánh dấu bằng sự kiện Vijaco, công ty con của VIMC, cùng 5 đối tác Nhật là Kanematsu, Suzue, Meiko Trans, Kamigumi và Honda Trading bắt tay lập liên doanh (năm 1994). Từ đó đến nay, thị trường tiếp tục ghi nhận những thương vụ vốn Nhật đổ vào lĩnh vực logistics tại Việt Nam. Đó là thương vụ Shibusawa Warehouse Ltd chi 9,2 triệu USD mua cổ phần của Vinafco (năm 2014). Hay Mitsui O.S.K Lines (MOL) đầu tư 1,2 tỉ USD xây Cảng container Quốc tế Hải Phòng (năm 2016). Còn SG Holdings cũng chi ra 9 triệu USD để mua gần 80% cổ phần ở Phát Lộc Express (năm 2016).

Mới đây nhất, đầu tháng 7/20119, MOL đã đến khảo sát Cảng Quốc tế Vĩnh Tân (VTIP) để xem xét đưa các tàu của MOL vận chuyển than nhập khẩu từ Indonesia vào cảng. Ngoài ra, MOL cũng tìm hiểu khả năng làm hàng gỗ dăm của các doanh nghiệp trong khu vực cảng Vĩnh Tân.

Ở phía Bắc, MOL đã cùng Viseco, HTM và Golden Link lập liên doanh MVG để triển khai dự án kho bãi MVG Đình Vũ.

Trong khi đó, dòng vốn Hàn Quốc đổ vào Việt Nam tuy đi sau Nhật nhưng lại trở nên hấp dẫn. Bởi theo Cục Đầu tư nước ngoài, vốn Hàn Quốc ở Việt Nam hiện chỉ sau Hồng Kông (Trung Quốc), chiếm 20,3% vốn FDI đăng ký. Số lượng doanh nghiệp Hàn Quốc hiện diện tại Việt Nam lên tới 7 nghìn công ty. Các công ty này hoạt động trong nhiều lĩnh vực, gồm cả công nghiệp chế tạo, công nghiệp nặng đến tài chính, tiêu dùng…

Nhiều nhà đầu tư Hàn Quốc là những tập đoàn nổi tiếng thế giới như Samsung, LG, Kumho, Hyundai, GS, Lotte, CJ... Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam - Hàn Quốc hiện đạt 65,7 tỉ USD và đang hướng tới con số 100 tỉ USD.

Trong bối cảnh đó, hợp tác logistics giữa Việt Nam với Hàn Quốc hứa hẹn mở ra nhiều cơ hội. Thương vụ đáng chú ý là Samsung SDS bắt tay với Công ty Cổ phần Logistics Hàng không (ALS) để lập liên doanh ALSDS, tham gia kinh doanh logistics tại Cảng Hàng không Quốc tế Nội Bài (Hà Nội). Samsung SDS cũng đã ký kết với Minh Phương Logistics nhằm khai thác tiềm năng thị trường vận tải hàng hoá nội địa bằng đường bộ.

Do đó, hợp tác giữa CJ Logistics và Gemadept kỳ vọng không chỉ tạo ra những xoay chuyển mạnh mẽ cho Gemadept mà cho cả ngành logistics Việt Nam. Riêng ULP, doanh nghiệp logistics hàng đầu tại Hàn Quốc, với mạng lưới khách hàng là các hãng lớn (Samsung, Hyundai, LG, Sony, Canon, Foxconn, Doosan, Korea Power; Hyundai, CJ, HTNS, Lotte, Pantos, KGL, Damco, Schenker, Kerry…) cũng đã ký kết với Công ty Cổ phần Dịch vụ Sân bay (ASG) tham gia cung cấp dịch vụ logistics đối với hàng hóa có yêu cầu đặc biệt.

Hoạt động vận tải và logistics Việt Nam đang trên đà phát triển cùng với sự gia tăng hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Sự phát triển của ngành vận tải và logistics đồng thời sẽ tạo điều kiện để Việt Nam nhanh chóng trở thành một trung tâm sản xuất mới trong khu vực có khả năng cạnh tranh cao.

Theo công bố mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang xếp ở vị trí 39 với điểm số LPI (Logistics performance index - chỉ số năng lực quốc gia về logistics) được cải thiện đáng kể: 3,27, xếp thứ 3 trong khối ASEAN (sau Singapore vị trí 7 và Thái Lan vị trí 32) bảng xếp hạng hoạt động logistics 2018, được đánh giá là có hiệu suất dịch vụ logistics tốt hơn hẳn các thị trường có mức thu nhập tương đương.

Bộ Công Thương đánh giá năm 2018 ngành logistics có mức độ tăng khoảng 12 - 14%. Số lượng các doanh nghiệp vận tải và logistics hiện nay là 3 nghìn doanh nghiệp, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thủy nội địa, đường hàng không...

Các doanh nghiệp trong ngành cũng thể hiện niềm tin tăng trưởng khi có đến hơn 73% doanh nghiệp tham gia khảo sát của Vietnam Report cho rằng, toàn ngành vận tải và logistics Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng trên hai con số, gần 27% dự đoán đạt mức dưới 10% trong năm 2019 và không doanh nghiệp nào dự báo "không thay đổi" hay "xấu hơn năm 2018".

Việt Nam hiện đang có chủ trương huy động vốn từ khu vực tư nhân để đầu tư hạ tầng thông qua phương thức chuyển nhượng quyền khai thác một số hạ tầng (logistics, sân bay, cảng biển…), thu hút nhiều nhà đầu tư lớn với các thương vụ được dự tính sẽ có quy mô hàng tỉ USD.